Văn phòng công chứng sẽ hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân?
Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống mua bán người Hà Nội: Đa dạng, đổi mới hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật |
Miễn cưỡng hợp danh...
Bộ Tư pháp đang chủ trì xây dựng Luật Công chứng (sửa đổi), nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý trong lĩnh vực này để điều chỉnh những vấn đề phát sinh mới chưa được Luật quy định và khắc phục các hạn chế, bất cập cần sửa đổi, bổ sung, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Tờ trình của Bộ Tư pháp cho biết, đội ngũ công chứng viên tuy tăng nhanh về số lượng nhưng chất lượng chưa đồng đều, một bộ phận yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, chấp hành không nghiêm các quy định của pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Bên cạnh đó, việc phát triển các tổ chức hành nghề công chứng chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng và phân bố hợp lý. Các tỉnh, thành phố có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển thì số lượng văn phòng công chứng vượt quá so với nhu cầu trong khi các địa bàn vùng sâu, vùng xa thì không thành lập được văn phòng công chứng.
Đồng thời, việc văn phòng công chứng chỉ được hoạt động theo một loại hình duy nhất là công ty hợp danh, trong đó phải có ít nhất 02 thành viên hợp danh là công chứng viên đã bộc lộ hạn chế trong việc miễn cưỡng hợp danh vì không còn sự lựa chọn nào khác làm phát sinh nhiều mâu thuẫn, tranh chấp nội bộ giữa các thành viên hợp danh.
Mặt khác, về danh nghĩa các văn phòng công chứng hoạt động theo loại hình công ty hợp danh nhưng trên thực tế có không ít văn phòng công chứng chỉ có 01 công chứng viên hành nghề thực tế, những công chứng viên hợp danh còn lại thực chất là “mượn danh”, “đi thuê”…
Ảnh minh họa. (ảnh: VGP) |
Bên cạnh đó, việc đồng thời tồn tại việc công chứng, chứng thực đối với các giao dịch, hợp đồng nhưng có quy định khác nhau về điều kiện, trình tự, thủ tục thực hiện công chứng, chứng thực, có nguy cơ tạo rủi ro cho việc bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch, hợp đồng được công chứng, chứng thực.
Thực tế, hoạt động chứng thực hợp đồng, giao dịch về bản chất chính là hoạt động công chứng. Văn bản chứng thực có giá trị sử dụng như văn bản công chứng. Tuy nhiên, trình tự, thủ tục chứng thực lại đơn giản hơn nhiều so với công chứng, người thực hiện chứng thực có các tiêu chuẩn, điều kiện và trách nhiệm thấp hơn hẳn so với công chứng viên.
Tình trạng này tạo ra sự bất hợp lý khi duy trì hai loại hình hoạt động có cùng bản chất, giá trị nhưng lại có hai tên gọi khác nhau, do các chủ thể khác nhau thực hiện theo trình tự, thủ tục khác nhau.
Cũng theo Bộ Tư pháp, trình tự, thủ tục công chứng hợp đồng, giao dịch còn quy định cứng, chưa tạo tiền đề trong việc công chứng hợp đồng, giao dịch trên môi trường điện tử. Việc công chứng hợp đồng ủy quyền còn bị hạn chế bởi nơi cư trú của các bên trong hợp đồng, giao dịch hoặc quy định công chứng viên phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội của bản dịch trong khi công chứng viên không có đủ khả năng kiểm soát về vấn đề này...
Bổ sung quy định về độ tuổi hành nghề của công chứng viên
Dự kiến Luật sẽ sửa đổi, bổ sung 44 điều, bổ sung mới 3 điều trên tổng số 84 điều, tập trung giải quyết 5 nhóm chính sách lớn. Trong đó, xác định rõ nguyên tắc những địa bàn cấp huyện đã phát triển được tổ chức hành nghề công chứng thì việc chứng nhận hợp đồng, giao dịch được giao cho tổ chức hành nghề công chứng thực hiện. Phòng Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp xã không chứng thực hợp đồng, giao dịch nữa.
Đồng thời, sửa đổi, bổ sung các quy định về độ tuổi hành nghề của công chứng viên, đào tạo nghề công chứng, miễn đào tạo nghề công chứng, tập sự hành nghề công chứng; thư ký nghiệp vụ công chứng nhằm xây dựng đội ngũ nhân viên giúp việc đủ năng lực, sẵn sàng kế cận cho đội ngũ công chứng viên.
Phát triển các tổ chức hành nghề công chứng phù hợp với nhu cầu, số lượng và sự phân bố công chứng viên, có mô hình tổ chức hoạt động phù hợp với tính chất của hoạt động công chứng và yêu cầu thực tiễn, có đủ năng lực để thực hiện tốt chức năng hỗ trợ quá trình hành nghề của công chứng viên. Luật sẽ bổ sung quy định loại hình Văn phòng công chứng theo loại hình doanh nghiệp tư nhân, mở rộng cơ hội lựa chọn và thay đổi tên gọi của Văn phòng công chứng.
Đồng thời, quy định linh hoạt hơn về trình tự, thủ tục nhưng vẫn bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của hoạt động công chứng nội dung; tạo lập nền tảng pháp lý cần thiết để triển khai việc chuyển đổi số trong hoạt động công chứng phù hợp với xu thế và yêu cầu của thời kỳ mới.
Trong đó, quy định rõ những công đoạn bắt buộc phải thực hiện trong quy trình công chứng và quy trình nào phải do công chứng viên thực hiện, quy trình nào có thể do người khác thực hiện để làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của từng chủ thể; cho phép sử dụng bản sao giấy tờ đối với một số trường hợp cụ thể...
Trong 7 năm thi hành Luật Công chứng năm 2014, các tổ chức hành nghề công chứng trên cả nước đã thực hiện hơn 41 triệu việc công chứng; tổng số phí công chứng thu được hơn 13 nghìn tỷ đồng; tổng số thù lao công chứng thu được hơn 2 nghìn tỷ đồng; tổng số tiền nộp thuế và nộp ngân sách nhà nước hơn 2,3 nghìn tỷ đồng.